Hẳn trong mỗi chúng ta đều một lần nhìn thấy ngựa vằn, ở trong sở thú hoặc ở rạp xiếc, đây là loài vật được rất nhiều trẻ em yêu thích. Nhưng không hẳn tất cả mọi người đều biết về đặc điểm, tập tính cũng như các đặc điểm sinh sản, tập tính kiếm ăn và cách di chuyển của ngựa vằn trong tự nhiên. Hãy cùng tìm hiểu về loài ngựa vằn qua bài viết dưới đây.
Nội dung bài viết
Ngựa vằn sống ở đâu?
Ngựa vằn là một loài động vật hết sức thú vị và không thể nào nhầm lẫn với các loài vật khác do màu sắc lông đen trắng xen lẫn nhau. Ngựa vằn sinh sống chủ yếu ở các khu vực đồi núi và thảo nguyên nhiều cỏ.
Theo tổ chức bảo vệ động vật hoang dã thế giới đã thống kê rằng loài ngựa vằn có khoảng 800.000 cá thể trong đó có ba loài ngựa vằn phân bố ở trên khắp lục địa châu Phi. Trong đó, loài ngựa vằn của Grevy sinh sống ở phía đông châu Phi, ngựa vằn đồng bằng thường thấy ở một số nước phía đông và phía nam và cuối cùng ngựa vằn núi sinh sống chủ yếu ở miền nam. Loài ngựa vằn Grevy có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất trong tất cả các loài ngựa vằn, cần được bảo vệ chặt chẽ.
Cách di chuyển của ngựa vằn
Ngựa vằn có cách di chuyển chậm rãi hơn so với những giống ngựa thông thường. Tuy nhiên, khi bị kẻ thù tấn công thì ngựa vằn lại có sức chạy vô cùng bền bỉ làm nản lòng những kẻ săn mồi nguy hiểm.
Trường hợp nguy hiểm hơn, nếu ngựa vằn bị truy đuổi gắt gao, chúng sẽ chạy theo đường zigzag qua lại, khiến cho kẻ săn mồi khó có thể tóm được. Trường hợp bị dồn vào bước đường cùng không còn lối thoát hay chạy trốn thì chúng sẽ đá hậu hoặc lao đến cắn kẻ thù.
Đề tìm nguồn thức ăn và nước uống, ngựa vằn cần phải di chuyển đến các địa điểm địa hình đặc biệt. Chúng có thể tập hợp thành bầy đàn lớn lên tới hàng ngàn con để di cư đến địa điểm sinh sống mới. Trong đoàn ngựa vằn di cư này, có thể xen lẫn một số loài động vật ăn cỏ khác, như là linh dương đầu bò.
Đặc điểm và tập tính của ngựa vằn
Ngựa vằn thường có kích cỡ khá khác nhau, trong tất cả các giống ngựa thì ngựa vằn Grevy có kích thước lớn nhất. Ngoài ra, vai của ngựa vằn đồng bằng dao động từ 1,2 đến 1,3 mét. Thân của loài ngựa này trung bình từ 2 đến 2,5 mét. Cân nặng của ngựa vằn cái thấp hơn một chút so với con đực.
Một đặc điểm quen thuộc để nhận diện ngựa vằn đó là những cái sọc trên thân ngựa, giúp ngựa vằn trở thành một trong các loài động vật quen thuộc và gần gũi đối với con người. Ngựa vằn thích nghi với nhiều môi trường sống khác nhau từ đồng bằng đến thảo nguyên, từ rừng cây đến những ngọn đồi ven biển.
Hiện nay, với việc săn bắt vô tội vạ của con người nhằm săn bắt loài ngựa vằn để lấy da cũng như phá hủy môi trường sinh sống của chúng, điều này làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến số lượng ngựa vằn. Một trong những điểm nổi bật của ngựa vằn là thị lực, do mắt của ngựa vằn nằm ở 2 bên gần như ở trên đỉnh đầu nên thị lực của chúng rất tinh tường, tầm nhìn cũng rộng hơn nhiều. Điều này giúp cho ngựa vằn có thể các sự vật trong đêm tối tăm.

Mặt khác, ngựa vằn cũng có thính giác rất nhạy bén, do tai của ngựa vằn tròn, to và đặc biệt là hai tai có thể xoay theo nhiều góc độ khác nhau giúp chúng có thể phát hiện sớm kẻ thù. Mặc dù mang nhiều đặc điểm có lợi nhưng ngày trước ngựa vằn hiếm khi được sử dụng làm ngựa chiến đấu do chúng có sọc vằn trắng đen rất khó để ngụy trang trong chiến trận.
Tập tính sinh sản của ngựa vằn
Ngựa vằn cái thường trưởng thành sớm hơn so với ngựa vằn đực. Ngựa vằn cái có thể giao phối và sinh sản ngay khi đạt 3 năm tuổi. Trong khi đó ngựa vằn đực phải chờ đến tầm năm thứ 5, thứ 6 thì mới có thể bắt đầu giao phối.
Ngựa vằn mang thai và đẻ 1 con duy nhất mỗi năm. Khi mới lọt lòng, ngựa con đã có thể đứng lên, đi lại và tìm vú ngựa vằn mẹ để bú. Ngựa vằn con sẽ được bố, mẹ chúng và những con đầu đàn khác bảo vệ rất cẩn thận, nhằm tránh sự tấn công của kẻ thù.
Nói chung, ngựa vằn thường sống theo quần thể lớn nhưng lại chia ra thành các nhóm nhỏ hơn. Một gia đình ngựa vằn bao gồm 1 cá thể đực, vài cá thể cái và những con con tập hợp lại sống chung với nhau.
Cách kiếm ăn của ngựa vằn
Thức ăn của ngựa vằn chủ yếu là cây cỏ, đây là loài động vật ăn cỏ chặt chẽ, chủ yếu là các loại cỏ ngắn, xơ và dai. Nếu nguồn thức ăn cây cỏ thiếu thốn, chúng có thể ăn cả các loại thảo mộc, loài thảo mộc mà chúng yêu thích là Pennisetum schimperi, đây là một loài thân thảo ít được gia súc nuôi và các động vật móng guốc chẵn khác tiêu thụ. Ngựa vằn cũng có thể ăn lá, thân và chồi non của các loài thảo mộc thuộc các chi Chrysopogon, Enteropogon Y Cenchrus.
Để có thể tiêu hóa các loại cỏ này, ngựa vằn sẽ sử dụng phần răng cửa trước để cắt cỏ, sau đó những chiếc răng hàm sẽ có nhiệm vụ nghiền cỏ thành các mảnh nhỏ hơn để phục vụ cho việc tiêu hóa dễ dàng hơn. Vì vậy mà ngựa vằn sẽ phải nhai nhiều hơn nên cơ hàm vận động nhiều hơn. Trong cỏ còn có chất làm mài mòn bộ răng của ngựa vằn nên hàm răng của chúng sẽ không ngừng phát triển cho hết phần đời của mình.
Nước uống của chúng chủ yếu là nước từ các dòng sông hoặc đầm lầy chính vì vậy mà đến mùa khô chúng thường di chuyển thành đàn đến nơi khác có nhiều nguồn thức ăn nước uống hơn. Ngoài ra, chúng thường đào bới ở đáy sông khô cạn để tìm nguồn nước ngầm, chúng sẽ bảo vệ nó khỏi những động vật khác nếu cố gắng tiếp cận nguồn nước quý báu đó.
Trên đây là những thông tin thú vị về các đặc điểm, tập tính sinh sản cũng như nơi sống của ngựa vằn. Sự tồn tại và phát triển của loài vật này góp phần vào sự đa dạng của thế giới tự nhiên.